(TG) - Trong văn hóa thờ cúng tổ tiên, thờ cúng Vua Hùng không chỉ thể hiện ứng xử của hiện tại với quá khứ mà còn là một tín ngưỡng, lễ hội, bao hàm nhiều triết lý nhân sinh sâu sắc của một dân tộc nhận thức rõ về nguồn gốc của mình và mong muốn truyền lại cho các thế hệ sau.
Được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là một niềm tin thiêng liêng, lòng tự hào dân tộc và sức mạnh gắn kết cộng đồng, là điểm tựa tinh thần để dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức để tồn tại và phát triển.
1. Thờ cúng Hùng Vương ở Việt Nam là một diễn trình lịch sử truy tìm về cội rễ:
“Dù ai đi ngược về xuôi; nhớ ngày Giỗ Tổ mùng Mười tháng Ba”
Giỗ Tổ Hùng Vương được coi là ngày Quốc giỗ. Song, thờ cúng Hùng Vương có từ bao giờ và khi nào tên gọi Hùng Vương trở thành tên chính thức trong văn hóa Việt Nam thì không phải ai cũng rõ.
Kéo dài hơn 2.000 năm dựng nước (từ 2879 đến 258 trước công nguyên), nhưng thông tin về triều đại Hùng Vương và các Vua Hùng phần lớn dựa vào truyền thuyết và huyền thoại còn sót lại ở khu vực quanh núi Nghĩa Lĩnh (Phú Thọ). Ngược dòng lịch sử, các tài liệu chép về Hùng Vương sớm nhất thấy trong sách “Lĩnh nam chích quái” và “Việt điện u linh” với những thông tin còn phủ nhiều màu huyền hoặc. Về sau, trong bộ sử chính thống: “Đại Việt sử ký toàn thư” và “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim, phả hệ Hùng Vương mới được biên chép thành “họ Hồng Bàng”.
Theo phả hệ này, Hùng Vương là dòng dõi của Thần Nông và là người đã lập nên nhà nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu. Đó cũng là thời kỳ kéo dài từ văn hóa Phùng Nguyên đến Đông Sơn (theo phân kỳ khảo cổ học). Với hình thái kinh tế nông nghiệp cạn và nông nghiệp nước, cư dân Văn Lang chính là chủ nhân của văn minh sông Hồng. Do đó, từ tôn giáo đến văn hóa, lối sống, nếp nghĩ, tư duy đều hình thành trên nền tảng nông, ngư nghiệp. Ngày nay, những nét văn hóa của thời đại này vẫn tồn tại đây đó trong các lễ mật thuộc lễ hội vùng Trung du và đồng bằng châu thổ sông Hồng, trên những hoa văn trống đồng hay trong ký ức của người Mường.
Cho đến nay, ngoài các tư liệu khảo cổ học và một số tư liệu dã sử trên, vẫn chưa có tư liệu thành văn nào biên chép về thời kỳ hơn 2.000 năm của các triều đại Vua Hùng. Nhưng Hùng Vương và nhà nước Văn Lang vẫn được khẳng định và tồn tại vững bền trong tâm trí người dân Việt Nam. Tâm thức “con Lạc cháu Hồng” vẫn là niềm tự hào của tất cả người dân đất Việt. Điều này cho thấy, ý thức dân tộc và niềm tin sâu sắc luôn tồn tại bền vững trong các thế hệ người Việt Nam từ xưa đến nay. Vấn đề là truyền thuyết, thần thoại qua lăng kính niềm tin tôn giáo đã trở thành lịch sử hay dấu tích về các Vua Hùng còn lưu dấu trong văn hóa dân gian, dân tộc học, khảo cổ… để đủ sức thuyết phục cho sự tồn tại của một thời kỳ “Thượng cổ thời đại”(1).
Hùng Vương là khái niệm có nguồn gốc từ đâu? Phải chăng ngay từ khi khởi nghiệp các thủ lĩnh này đã có danh xưng Vua Hùng? Nghiên cứu cấu trúc xã hội Mường của Cuisinier những năm đầu thế kỷ XX và nghiên cứu của Trần Từ sau này cho thấy: trong xã hội Mường có tầng lớp quý tộc với tên gọi Lang, Cun. Cũng trong báo cáo khoa học của mình, giáo sư Lê Văn Lan đã cho biết: Hùng là khái niệm bắt nguồn từ Cun/Khun/Khu - rung (chỉ người đứng đầu bộ lạc, bộ tộc) và được biến âm thành Hùng, được phóng ngược và ghép thêm vào chữ (và nghĩa) Vương (vua) ở thời trung cổ mà thành Hùng Vương. Trong một tài liệu khác, Bình Nguyên Lộc(2) cũng cho biết người Mường gọi các tù trưởng của họ là Pò Khul(3); là khái niệm chỉ người đứng đầu bộ tộc và còn được gọi dưới các tên Khun Chương/ Trương ở nhiều khu vực cư trú của cư dân Bách Việt, thường được dùng riêng để gán cho họ của những cá nhân thuộc tầng lớp trên, tầng lớp quý tộc.
Thực chất, Hùng Vương lúc bấy giờ là những quân chủ bộ lạc đang trên đường hoặc mới hình thành quân chủ nhà nước. Chữ Văn Lang cũng là một cách gọi về một cộng đồng tộc người có tục vẽ, xăm mình ở Việt Nam, ngoài ra Lang còn có nghĩa chỉ “con người, người đàn ông”(4)… Như vậy, cho dù nguồn gốc của Hùng Vương mờ, tỏ thế nào, thì đó vẫn là người đứng đầu - thủ lĩnh của bộ lạc Việt/Việt Thường/ Lạc Việt thời bấy giờ và bộ lạc đó ý thức một cách rõ ràng về cộng đồng tộc người của mình. Vì thế, mười tám đời Hùng Vương cũng là con số ước lệ chỉ sự chuyển giao quyền lực lưu truyền qua nhiều đời Cun/Khun ở khu vực Phong Châu và mở rộng ra các khu vực xung quanh. Khi quyền lực chuyển giao từ Hùng qua Thục, thì người Việt Nam lúc bấy giờ đã có sự hợp nhất hai bộ lạc Tây Âu (gốc Tày - Thái) và Lạc Việt thành một khối thống nhất để cùng đối phó với sự bành trướng về phương Nam của đế chế Tần phía Bắc.
2. Thờ cúng Hùng Vương có từ khi nào?
Năm 1372, Hàn lâm viện học sĩ Hồ Tông Thốc là người đầu tiên đưa các Vua Hùng với tư cách là nhân vật lịch sử vào chính sử trong tài liệu “Việt Nam thế chí”. Sách “Việt sử lược”, soạn năm 1377 đã chép về Hùng Vương dựng nước Văn Lang, nhưng với tư cách như một pháp sư tài giỏi thâu tóm được quyền lực các bộ tộc để trở thành vị thủ lĩnh tối cao của bộ lạc. Năm 1435, “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi đã nhắc đến Hùng Vương theo thư tịch đời Trần như một niềm tự hào dân tộc. Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã cho lập Ngọc Phả Hùng Vương với tên gọi đầy đủ là “Ngọc phả cổ truyền về 18 đời thánh vương triều Hùng”. Từ đó, việc thờ cúng Hùng Vương trở thành chính thống. Sau này đến đời Nguyễn, các Vua nhà Nguyễn cũng rất lưu tâm đến khu di tích Đền Hùng và tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương.
Năm 1874, Vua Tự Đức lệnh cho Tổng đốc Tam tuyên Nguyễn Bá Nghi xây dựng lăng Hùng Vương cạnh đền Thượng. Năm 1917, dưới triều Khải Định, bộ Lễ cũng chính thức gửi công văn phái quan hàng tỉnh của Phú Thọ lấy ngày 10 - 3 âm lịch hằng năm để cử hành quốc tế, các quan lại phải mặc phẩm phục lên Đền Hùng thay mặt toàn dân cúng tế(5). Năm 2007, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quyết định lấy ngày 10-3 âm lịch chính thức là ngày Giỗ các Vua Hùng. Biểu tượng linh thiêng của dân tộc chính thức được quy định trong văn bản nhà nước, trong vui mừng của toàn dân. Cũng từ đây, lễ hội có quy mô địa phương trở thành ngày đại lễ của quốc gia.
Đền Hùng ban đầu chỉ hiện diện tại vùng núi Nghĩa Lĩnh (Phú Thọ), rồi lan tỏa tới các địa phương khác như làng Cổ Tích (Hy Cương), Đình Trẹo (thị trấn Hùng Sơn) và cứ thế mở rộng ra cả nước. Đến năm Cảnh Hưng thứ 24 (1763), dưới thời Lê Trung Hưng, cả nước có 73 làng thờ Hùng Vương và đều là những làng xã nằm trong vùng kinh đô Văn Lang(6).
Sự lan rộng của tín ngưỡng đã cho thấy, việc thờ cúng Hùng Vương đã được dung nạp vào đời sống tinh thần của toàn dân và thực sự tín ngưỡng này dung chứa một ý nghĩa triết lý nhân sinh cao cả, không chỉ khắc sâu vào tâm khảm người Việt Nam về nguồn gốc giống loài đẹp đẽ (Lạc Hồng) mà còn có tác dụng ước thúc nhân tâm quy về một nguồn cội: Quốc Tổ Hùng Vương.
3. Triết lý nhân sinh trong thờ cúng Hùng Vương
Một là, thờ cúng Hùng Vương nằm trong mạch nguồn văn hóa Việt.
Thờ cúng tổ tiên và người có công với nước là một trong những thế ứng xử của người Việt Nam xưa và nay. Trong gia đình, tông tộc, việc tế tự tổ tiên là nhớ ơn sinh thành (phục bản phản thủy) và lưu truyền nòi giống (vĩnh truyền tôn thống); đồng thời, thể hiện “mối dây liên hệ giữa người sống và người chết không hề bị đứt đoạn”. Ở quy mô quốc gia, dân tộc, việc thờ cúng Vua Tổ chính là sự thể hiện ở chiều kích ứng xử giữa hiện tại và quá khứ, là cách để tỏ lòng ngưỡng mộ, ghi nhớ công lao của tiền nhân; đồng thời, cũng là cách tốt nhất để lưu truyền lịch sử dựng nước cho muôn đời con cháu về sau.
Việc thờ cúng Hùng Vương và truy tôn Quốc Tổ, Quốc Giỗ không chỉ nhằm ước thúc nhân tâm tụ quy về một cội, mà còn là sự thể hiện của “ý thức văn hóa quốc gia”; trong đó, “ý thức về lãnh thổ và biểu tượng quốc gia” là vô cùng quan trọng.
Hai là, thờ cúng Hùng Vương gắn liền truyền thuyết Tiên - Rồng, thể hiện niềm kiêu hãnh về cội nguồn cao quý của tổ tiên và “khát vọng vươn lên trong tâm thức người Việt cổ”.
Cũng từ đây, người Việt truyền tụng đến mãi về sau những hình tượng đẹp đẽ, đầy dũng khí và cũng rất đỗi linh thiêng của linh vật đứng đầu trong tứ linh, đó là Rồng. Điều này không chỉ phản ánh tính thẩm mỹ cao của người Việt cổ mà cùng với óc sáng tạo về “bọc trăm trứng” còn cho thấy, tâm tư tình cảm, mong muốn trăm sông đều đổ về một dòng, nghìn cành nhánh đều cùng cội rễ mà thống hợp tâm linh và đoàn kết 54 tộc người. Ở đó, tinh thần gia tộc, tình nghĩa đồng bào, coi nhau như anh em được khẳng định không chỉ ở yếu tố cùng huyết thống, cùng một bọc, mà còn là sản phẩm của mối quan hệ thần bí do sự kết hợp của hai yếu tố tiên - rồng, âm - dương, cao - thấp. Ở đây, tâm thức thần bí của sự ra đời có tác dụng mạnh mẽ trong củng cố khối đoàn kết mọi tộc người và sợi dây tâm linh vô hình, nhưng bền chặt hơn các yếu tố vật chất hữu hình. Vì vậy, về với Đền Hùng, thắp nén tâm hương không phải chỉ để cầu nguyện những ước muốn vật chất thông thường mà còn có ý nghĩa hồi hướng tâm linh, quy nguyên về cội rễ, thắt chặt hơn mối dây liên kết đồng bào (cùng bọc).
Ba là, về mặt dân tộc học, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã góp phần khẳng định thêm thời kỳ tiền Việt - Mường trong lịch sử dựng nước.
Trong “Hòa Bình quan lang sử lược” (giải thích nguồn gốc họ nhà Lang của người Mường) với những thông tin về vua Dịt Dàng đã cho thấy, Vua Hùng cũng là tổ của người Mường và đã được phản ánh trong diễn ca Mường: “Hùng Vương là tổ nước mình/ Phong Châu là chốn kinh thành triều đô/Lang từ khởi tổ ngày xưa/Cuối Văn Lang quốc bây giờ đã qua/Mỗi cành con cháu phong ra/ Họ chia Đinh, Quách, Bạch, Hà, Xa, Cao”(7). Cùng với các tư liệu do Janne Cuisinier về vua Dịt Dàng, với những thông tin giống như truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ cho thấy, huyền thoại về Vua Hùng chính là xuất phát từ nguyên mẫu Dịt Dàng hay chim Ây cái Ứa của người Mường, mà dấu tích vẫn còn lưu lại trong thờ cúng Bua tản (Bua ba ví) của người Mường và Tản Viên Sơn của người Việt.
Bốn là, về mặt địa chất học, Phú Thọ cũng là đỉnh của tam giác châu thổ sông Hồng, là vùng chuyển tiếp từ trung du xuống đồng bằng.
Đây cũng là khu vực được bồi đắp đầu tiên khi các con sông tiếp nhận những phụ lưu lớn của sông Lô, sông Đuống và sông Luộc. Các tư liệu khảo cổ học (đồ đá, đồ gốm, xương, công cụ, bàn mài, mũi giáo, lao, tên và đồ gốm đến đồ đồng…), với những di chỉ tiêu biểu như Làng Cả, Gò De đã chứng minh sự phát triển mạnh mẽ, liên tục, phong phú của văn hóa Phùng Nguyên (văn hóa thời Hùng Vương) đến Đồng Đậu, Gò Mun và đỉnh cao là Đông Sơn tạo nên “không gian văn hóa - lịch sử Hùng Vương” - mảnh đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam(8).
------------------------------------
(1) Chữ dùng chỉ thời đại Hùng Vương của Trần Trọng Kim khi biên soạn “Việt Nam sử lược”.
(2) Nguồn gốc Mã lai của dân tộc Việt Nam, Nxb. Xuân Thu, 1971.
(3) Ở một số địa phương, từ Pò chuyển âm thành pô (Pô inư na ga), hoặc Bố (Bố cái đại vương) đều chỉ người đứng đầu.
(4) Từ Lang ngoài nghĩa chỉ con người, còn có nghĩa chỉ người đàn ông (Lang binh, Ngưu lang…); Văn là nét vẽ, chỉ bộ lạc đó có đặc điểm xăm mình. Tục này vẫn còn kéo dài tới tận đời Trần Anh Tông mới chấm dứt hẳn.
(5) Tạ Ngọc Tấn (chủ biên): Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Việt Nam, Nxb. Lý luận chính trị, H, 2015, tr. 9.
(6) Kinh đô ở đây hiểu theo nghĩa khu vực có các Vua Hùng ở, chứ không phải kinh đô theo nghĩa có thành quách sau này.
(7) Quách Điêu: Hòa Bình quan lang sử lược, Tạp chí Nam Phong, số 100, 1925.
(8) Bùi Văn Liêm: Di tích, di vật liên quan đến tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ qua các đợt khai quật khảo cổ học (trong cuốn Thờ cúng Hùng Vương ở Việt Nam của Tạ Ngọc Tấn, sđd, tr. 124- 127).
TS. Nguyễn Ngọc Hà/ Tạp chí Tuyên giáo số 4-2018
(nguồn: http://www.tuyengiao.vn)